Theo
sách: "Đinh triều Nguyễn Công Hành khiển, sắc tặng Quang Lộc đại vương
Ngọc phả" và truyền thuyết dân gian, thì lúc đầu Nguyễn Bặc rút quân về
vùng "Tả Sơn Động" (tức làng Khê Đầu thượng, Khê Đầu hạ xã Ninh Xuân
Huyện Hoa Lư ngày nay). Đinh Điền, Nguyễn Bặc đánh nhau với Lê Hoàn ở
sông Đáy, sông Vân và từ vùng hữu ngạn sông Vân đến vùng "Tả Sơn Động".
Có
thể khi phải mai danh ẩn tích. Con cháu Nguyễn Bặc phải thờ Nguyễn Bặc
dưới hình thức thờ Quý Minh, Cao Sơn hay Hành Khiển Quang Lộc đại vương.
Chỉ có những sắc phong thời Nguyễn mới ghi rõ "Định quốc công Nguyễn
Bặc". Cũng có thể truyền thuyết về Nguyễn Bặc bị đồng hóa với truyền
thuyết Quý Minh, Cao Sơn đại vương.
Theo
truyền thuyết, Nguyễn Bặc bị hành quyết ở ven bờ hữu ngạn sông Chanh,
nơi hành dinh của ông. Con cháu bí mật đưa xác ông về quê, chôn cất ông ở
gò Con Cá, cánh đồng chùa thôn Vĩnh Ninh (nay thuộc xã Gia Lập, huyện
Gia Viễn).
Sau đó con cháu phát tán đi các nơi, mai danh ẩn tích đến thế
lỷ XVII, ông Nguyễn Tài Nông từ Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn (nay là
làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) mới về xã Đại
Hoàng huyện Gia Viễn (nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh
Bình) giữ mộ tổ Nguyễn Bặc. Đây là quê hương của Đinh Bộ Lĩnh và Nguyễn
Bặc. Nhân dân địa phương có câu "Đại Hữu sinh vương, Điềm Giương sinh
thánh" (Nghĩa là làng Đại Hữu sinh ra vua Đinh, làng Điềm Giương tức
Điềm Giang, nói hiệp vần sinh ra thánh Nguyễn Minh Không). Làng Đại Hữu
xưa là Đại Hoàng, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ba thôn: Văn
Bòng, Văn Hà, Vĩnh Ninh. Ngày nay ở làng Văn Bòng có xóm Văn Bòng là dấu
tích địa danh của sách Bông xưa. Ở thôn Vĩnh Ninh có nhà thờ Nguyễn Bặc
tại thung Mã Tướng dưới chân núi Hồ cạnh núi Lỳ Lân, gần mộ phát tích
của nhà Đinh.
Nhà
thờ họ Nguyễn ở thôn Vĩnh Ninh do cụ Nguyễn Tài Nông dựng lên thờ ông
tổ Nguyễn Bặc. Về sau, con cháu thờ phụ ông Nguyễn Tài Nông và các cụ tổ
tiếp theo. Xưa kia nhà thờ rất bề thế, kiến trúc kiểu "tiền nhât - hậu
Đinh". Tiền đường 5 gian bằng gỗ xoan, mít vì kèo kiểu thượng giường, hạ
kẻ. Trung đường có 3 gian, hai vì kèo giữa theo kiểu kẻ truyền, hai vì
kèo bên làm theo kiểu thượng giường hạ kẻ. Hai gian bên trung đường thờ
ông Nguyễn Tài Nông và các ông tổ tiếp theo. Gian hậu cung thờ Nguyễn
Bặc. Tiền đường đã bị thực dân Pháp đốt năm 1948, mới khôi phục lại.
Ngày
nay ở trung đường còn có ba chữ lớn "khởi nghĩa đường" (nghĩa là: Khởi
đầu dòng họ Nguyễn). Hàng năm cứ đến ngày giỗ Nguyễn Bặc vào 15/10 (âm
lịch), con cháu ở các nơi như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa,
Nghệ An, Huế, Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh.v.v... Đều về đây vì
đây là nơi đất tổ. Còn các nơi khác chỉ giỗ các cụ thế tổ trực tiếp
sinh ra chi họ mình.
Ở nhà thờ còn có đôi câu đối sơn son thiếp vàng lộng lẫy:
Vận dực Viêm Giao Cồ Việt Quốc
Thế truyền thang ấp thụ nguyên gia.
(Nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt được dựng lên ở đất Viêm Giao
Họ Nguyễn truyền đời ở đất thang ấp (Đại Hữu)
Cũng
vào thế kỷ XVII, một chi họ Nguyễn khác từ Gia Miêu (Thanh Hóa) ra làng
Ngô Khê Hạ, xã Ninh Hòa, huyện Hoa Lư ngày nay, tương truyền là nơi
hành dinh của Nguyễn Bặc. Ở đây có 5 làng ở phía đông Kinh đô Hoa Lư
xưa, ở hai bên đường Tiết Yết, dụng 5 ngôi đền thờ Nguyễn Bặc. Đó là
đình Ngô Khê thượng, đình Ngô Khê hạ, đình Thanh Khê thượng, đình Thanh
Khê hạ và đình Áng Ngũ. Các cụ già địa phương cho biết xua kia bốn làng
Thanh, Ngô Khê thượng, hạ là một, sau vì mâu thuẫn mới phân xã, tách
thôn. Hàng năm ngày giỗ Nguyễn Bặc được tiến hành trong ba ngày 13, 14,
15 tháng 10 (âm lịch). Dân bốn làng thay nhau mỗi làng giỗ chính một
năm. Ngày 14 tháng 10 (âm lịch) người ta rước chân nhang Nguyễn Bặc từ
đền Con Cò ven sông Chanh thờ Nguyễn Bặc ở nơi hành quyết ông, về đình
và tế trong ba ngày. Ngày 15 tháng 10 (âm lịch) là ngày giỗ chính.
Ba
đình ở ba làng kia nay đã bị mất, chỉ còn đình Ngô Khê hạ. Xưa kia ở
đình có bức hoành phi ghi bốn chữ lớn "Trung quán nhật nguyệt" (nghĩa
là: Trong sáng như mặt trời mặt trăng) và đôi câu đối:
Trung tuấn Long Giang bình xứ Bắc
Danh tiêu Mã Lĩnh quán Cồ Nam.
(Nghĩa là: Lòng trung hiếu lừng lẫy sông Hoàng Long, dẹp yên quan xứ Bắc/ Danh tiếng nêu cao núi Mã yên, rạng rỡ trời Nam)
Qua
các di tích thờ Nguyễn Bặc, chúng tôi thấy lúc đầu, vì phải che dấu,
nhân dân ta thờ Nguyễn Bặc dưới hình thức Quý Minh, Cao Sơn.v.v... Dần
dần thế lực của nhà tiền Lê (Lê Hoàn) không còn nữa đấy là vào thời Nguyễn,
có lẽ các vua nhà Nguyễn biết Nguyễn Bặc là ông Tổ của mình, nên đã
phong sắc ghi rõ chức Định Quốc Công của ông. Dù thế nào chăng nữa
Nguyễn Bặc vẫn sống mãi trong lòng dân.
Theo "Ninh Bình theo dòng lịch sử văn hóa"
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét