Trong quan hệ giao tiếp việc xưng hô là rất quan trọng, đặc
biệt trong gia tộc. Ngày nay, trong giao tiếp mọi người thường dùng tiếng Việt
và xen nhiều tiếng lóng, từ ngoại lai…Song trong tang lễ hay cúng giỗ các thầy
hoặc bậc trưởng thượng thường dùng từ Hán Việt mà ngày nay ít người nhớ nổi.
Trong Xưng hô thì “xưng” là
tiếng tự gọi mình còn “hô” tiếng gọi người khác.
Danh xưng biểu hiện thứ bậc trong gia đình, gia tộc; về quan
hệ trên dưới, cấp chức trong công sở hay việc giao tiếp ở ngoài xã hội…Nhưng
khi cúng giỗ, xướng danh khi tang lễ vẫn còn dùng từ xưng hô bằng âm Hán Việt mà
với số đông là nghe rất trúc trắc, khó nhớ. Theo sách THỌ MAI GIA LỄ việc thờ
cúng ở Chi tộc chỉ tới 5 đời, còn lại là tống giỗ, tổ chức tế lễ rước cụ tổ Lục
đại (6 đời) về Từ đường (Nhà thờ) đại tộc. Do vậy trong các lễ tang, các buổi
cúng giỗ chỉ dùng các từ xưng hô trong 9 đời trên bản thân 4 đời và dưới bản
thân 4 đời.
Vấn đề Cửu huyền, Thất tổ và Cửu tộc có những cách lý giải
khác nhau, trong hoàn cảnh khác nhau. Xưng hô trong Cửu huyền theo quan niệm thời
vua Nghiêu vua Thuấn được trở lại từ thời Nhà Tần là lấy người trong họ của
cha, bà con trực hệ từ bản thân ngược lên 4 đời, và lấy xuống 4 đời, tức là từ cụ
Cao Tổ xuống đến cháu Huyền tôn là 9 đời . Theo đó, âm Hán Việt được đọc và
viết như sau: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Ngã, Tử, Tôn, Tằng, Huyền (高 曾
祖 父 我
子 孫 曾
玄). Trên Internet có định nghĩa của
người Trung Quốc về Cửu huyền九玄
như sau:子 (Tử, con)、孫 (Tôn, cháu)、曾
(Tằng, chắt)、玄
(Huyền, chút)、來
(Lai, chít)、昆
(Côn, nối)、仍
(Nhưng, quay lại)、雲
(Vân, xa)、耳
(Nhĩ, chút chít).
Một gia đình gồm có ông bà, cha mẹ và con cháu mở rộng ra nhiều gia đình họp lại thành Gia tộc 家族 nghĩa là họ. Nói một cách đơn giản và đầy đủ thì gia tộc là cộng đồng những người cùng do một Cụ Tổ sinh ra.
Nêú như ngôn ngữ Âu tây chỉ có từ chỉ rõ: Cha, Mình, Con thì hệ thống tôn ti trong gia tộc 9 thế hệ của người Việt rất chi li:
VIỆT
|
Kỵ
|
Cụ
|
Ông
|
Cha
|
Tôi
|
Con
|
Cháu
|
Chắt
|
Chút
|
HÁN VIỆT
|
Cao Tổ
|
Tằng Tổ
|
Tổ
|
Phụ
|
Ngã
|
Tử
|
Tôn
|
Tằng
|
Huyền
|
NGHĨA
|
Cha của Cụ
|
Cha của Ông
|
Cha của Cha
|
Cha của Tôi
|
Mình
|
Con của mình
|
Cháu của mình
|
Chắt của mình
|
Chút của mình
|
Trong CHI tộc còn bao gồm cả những người mang họ khác, thuộc
gia tộc khác làm dâu, rể trong họ. Do vậy, con cháu còn phải thọ tang nhiều
người khác quanh mối trực hệ. Đó là: “chú” (em trai của “bố”), “cậu” (em
trai của “mẹ”), “cô” (em gái của “bố”), “dì” (em gái của “mẹ”),
“thím” (vợ của “chú”), “mợ” (vợ của “cậu”), “bác” (anh hay chị
của “bố” và của “mẹ”). Nên Cửu huyền trong Tang lễ lại là Cửu tộc
(H: 九 族, A: The nine families, P: Les
neuf familles) có trong thời Nhà Chu. Đó là bà con chín họ có liên hệ thân
thuộc với bản thân còn sống, khóc than cho cái chết và chịu tang người quá cố
với 9 hạng người, gồm: 4 hạng thuộc Tộc Cha (Những người trong Ngũ phục, Cô
và con cô, Chị em gái và con của chị em gái, Con gái và con của con gái );
3 hạng thuộc Tộc bên nhà Mẹ (Ông ngoại, Bà ngoại, Cậu Dì) và 2 hạng
thuộc Tộc bên nhà Vợ (Cha đẻ, Mẹ đẻ).
Như vậy, Cửu Huyền, căn cứ ở huyết tộc, lấy xa gần làm bà
con thân sơ theo Trực hệ: Từ bản thân lên đến Cao Tổ là 4 đời, xuống đến Huyền
tôn 4 đời. Còn Cửu tộc là những người theo mối quan hệ Bàng hệ là từ Bản thân
ngang ra đến Anh em ba tầng, kiêm cả nội ngoại.
Tổng hợp lại khi Cúng giỗ hay trong Tang ma phải biết những
người quan hệ cả theo chiều ngang và theo chiều dọc với bản thân người chủ. Đó
chính là: "Bản thị Cửu tộc, Hệ thống Cửu huyền". Phối hợp Trực
hệ và Bàng hệ, những người thân thiết trong 9 họ gồm: 1. Cha ruột.; 2. Mẹ ruột;
3. Cha vợ (hay Cha chồng); 4. Mẹ vợ (hay Mẹ chồng); 5. Vợ (hoặc
Chồng) của Bản thân; 6. Anh chị ruột; 7. Em ruột trai hay gái; 8. Con;
9.Cháu.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét