Dòng họ tức là Gia đình theo nghĩa rộng, tổ chức vững chắc,
liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những quyền lợi tinh thần, vật chất, bằng những
niềm tin tâm linh, bằng các mối dây luân lý của cộng đồng. Trong môi trường của
những mối quan hệ dòng họ, dần hình thành và xác định bản sắc văn hóa độc đáo:
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội hay còn gọi là văn hóa tổ
chức cộng đồng.
Dòng họ cũng thể hiện ý niệm về mối quan hệ giữa người đang
sống và linh hồn người đã chết. Nhận thức rằng tuy người đã chết nhưng vẫn sống ở một
thế giới khác và tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của con người. Nhận
thức luận về một sự sống mới đang tiếp diễn ở thế giới bên kia và niềm tin vào
sức mạnh siêu linh của những người đã chết có thể tác động, thậm chí đảo ngược
quá trình sinh, trụ, dị, diệt của những người đang sống.
Trải qua quá trình hình thành, phát triển lâu dài, dòng họ đã tạo dựng nhiều giá trị văn hóa tinh thần độc đáo. Trong cuộc sống thường ngày, mối quan hệ họ hàng luôn được đề cao: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Sống với các mối quan hệ họ hàng, con người luôn đề cao ý thức đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái, cưu mang, đùm bọc, che chở nội tộc: “ Xẩy cha còn chú, xẩy mẹ bú dì”; “Nó lú nhưng chú nó khôn”, …
Như vậy, chính truyền thống dòng họ
mang đậm chất nhân văn, với ý thức sâu sắc về nguồn cội đã trở thành nguồn sức
mạnh tinh thần vô giá. Nó làm thức dậy lòng kiêu hãnh tự hào, đốt cháy niềm
phấn khích đam mê, tiếp thêm sức mạnh tinh thần để cháu con bứt phá vươn lên
trở thành kẻ tài đức song toàn, nối nghiệp tổ tông, sáng danh dòng tộc.
Văn hóa tổ chức cộng đồng của dòng
họ có nhiều biểu hiện. Song hai biểu hiện tiêu biểu nhất là dòng họ người Việt
được tổ chức theo nguyên tắc phụ quyền và vận hành với phương thức tự trị. Theo
nguyên tắc phụ quyền, người đàn ông tuyệt đối được đề cao trên các phương diện
kinh tế, tín ngưỡng, tổ chức dòng tộc.
Về kinh tế, dòng họ người Việt thực
thi chế độ kế thừa bất động sản theo nguyên tắc phụ quyền. Theo nguyên tắc phụ
quyền, chỉ có nam nhân giữ vai trò trưởng tộc mới được hưởng đặc ân kế thừa bất
động sản gồm từ đường, ruộng vườn của dòng tộc. Nguyên tắc phụ quyền này còn
chi phối đến việc trao truyền gia sản của từng gia đình thành viên trong dòng
tộc. Khi cha mẹ qua đời, tài sản thường chia cho các con chủ yếu là con trai.
Người con trưởng đảm nhiệm việc tế tự tổ tiên nên được hưởng phần hương hỏa
nhiều hơn. Chính việc kế thừa tài sản theo nguyên tắc phụ quyền đã giúp dòng họ
truyền giữ của cải liên tục trong nhiều đời ở phạm vi nội tộc. Nhờ số của cải
vật chất này mà dòng họ có điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển và duy
trì các nghi thức trong việc thực hiện tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nguyên tắc
phụ quyền của dòng họ người Việt còn thể hiện rõ trên phương diện tín ngưỡng.
Thủy tổ của dòng tộc được con cháu đời đời khói hương thờ phụng phải là nam
nhân. Việc chỉ ghi nhận tổ tiên về phía người đàn ông đã khiến dòng họ của
người Việt về thực chất là một tổng gộp nhiều gia đình nhỏ liên kết chặt chẽ
với nhau bởi mối quan hệ huyết thống được xác định về phía người cha. Nguyên
tắc phụ quyền trên phương diện tín ngưỡng còn được thể hiện trong quy định về
người được phép tế tự tổ tiên. Đối với dòng họ người Việt, người đàn ông cụ thể
là tộc trưởng mới được ban phát đặc ân tế tự thủy tổ. Dựa trên nguyên tắc phụ
quyền, người Việt đã tổ chức dòng họ thành hai bộ phận: Họ nội và họ ngoại. Họ
ngoại được xác định theo huyết thống của người mẹ cùng hệ thống thân tộc già,
dì, cậu, mợ…Họ nội được xác định theo huyết thống người cha với hệ thống thân
tộc chú, bác, cô…Tuy cấu thành bởi hai bộ phận họ nội và họ ngoại nhưng người
Việt coi trọng họ nội mà xem nhẹ họ ngoại. Người con gái một khi đã “xuất giá
tòng phu” thì coi như người ngoài họ vì theo quan niệm dân gian “Nữ nhân ngoại
tộc”. Tổ chức nội tộc của dòng họ người Việt được xác định trên cơ sở xác định
một ông tổ chung về phía người cha. Hệ thống cửu tộc này bao gồm: Thuỷ tổ (
nhất tổ) Tiên Tổ, Cao Tổ (kỵ), Tằng Tổ (cụ), Tổ phụ (ông), Phụ (cha), ngã
(tôi), tử (con), tôn (cháu), tằng tôn (chắt), huyền tôn (chút)…Chính tính chất
phụ quyền trong việc đề cao dòng dõi tôn thống của người Cha khiến dòng họ của
người Việt về cơ bản nghiêng hẳn về họ nội. Dòng họ là tập hợp toàn thể con
cháu bên nội của cùng một ông tổ sinh ra các con cháu hậu duệ.
Về mặt tổ chức dòng họ, đứng đầu
dòng tộc sẽ là tộc trưởng. Tiếp đó sẽ là trưởng chi, trưởng phái, trưởng ngành,
trưởng nhánh, trưởng cành…Các vị trưởng này buộc phải là nam nhân và là con
trưởng của phân cấp mà mình đảm trách. Nhờ hệ thống trưởng thứ theo nguyên tắc
phụ quyền mà từng người trong dòng tộc được phân vai vế rõ ràng, xác định được
các mối quan hệ họ hàng và vị trí của mình trong nội tộc: “Bé bằng củ khoai. Cứ
vai mà gọi”; “Xanh đầu con ông bác. Bạc đầu con ông chú”. Sự phân vai này khiến
dòng họ người Việt tuy là một tổ chức của nhóm người cùng huyết thống với nhiều
độ tuổi khác nhau nhưng là một tổ chức chặt chẽ, có tôn ty với hệ thống ngôi vị
trưởng thứ, vai vế được phân cấp rất rõ ràng. Không ai phủ nhận rằng nguyên tắc
phụ quyền – nguyên tắc quan trọng nhất để thiết lập tổ chức dòng họ người Việt.
Về tín ngưỡng, tuy người đàn ông mới
danh chính ngôn thuận được phép tế tự tổ tiên song ngày nay người phụ nữ cũng
được thm gia vào việc tế cúng tổ tiên.
Để quản lý dòng tộc, các dòng họ
thường tự xây dựng một bộ máy tổ chức riêng. Bộ máy tổ chức này được gọi là Hội
đồng dòng tộc. Nhân sự của Hội đồng gia tộc thường bao gồm các vị trưởng tộc,
trưởng chi, trưởng ngành… Hiện nay, nhiều dòng tộc còn đề nghị những cá nhân
tuy không giữ vị trí trưởng nhưng có tri thức, kỹ năng quản lý hoặc những cá
nhân đang nắm giữ những cương vị trọng yếu trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp nhà nước, những doanh nhân thành đạt…cùng tham gia Hội đồng gia tộc. Hội
đồng gia tộc có nhiệm vụ tự quản lý tông tộc mình trên các phương diện: Tự giải
quyết mâu thuẫn để giữ gìn an ninh hòa mục trong nội tộc; đề xuất phương thức
xây dựng và phát triển dòng tộc; tổ chức các sinh hoạt phong tục: Quan, hôn,
tang, tế…của các gia đình thành viên; định hướng và giáo dục nhân cách con cháu
hướng tới các giá trị nhân văn “ Chân - Thiện - Mỹ”. Chân- Thiện- Mỹ về mặt con
người là hoàn thành trách nhiệm nghĩa vụ với chính mình, với gia đình, bạn bè, tình
yêu, đồng nghiệp, bà con lối xóm và quan hệ xã hội một cách tốt đẹp.
Vậy Hội đồng gia tộc căn cứ vào đâu
để quản lý dòng tộc, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên? Các dòng họ
thường có tộc ước. Tộc ước là những văn bản truyền miệng hoặc thành văn thường
được soạn thảo bởi Hội đồng gia tộc trong đó có nhiều điều khoản quy định rõ
ràng về quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành viên trong nội tộc. Bản
tộc ước này được các thành viên của dòng tộc thông qua và nhất trí tự nguyện
thi hành. Tự hình thành một bộ máy tổ chức, tự xây dựng một hệ thống “tộc quy”
riêng để quản lý dòng họ - đó chính là biểu hiện rất rõ của sự vận hành theo
phương thức tự quản của dòng họ.
Với phương thức tự quản, dòng họ đã
tự giải quyết mâu thuẫn nội tộc theo phương châm “Một giọt máu đào, hơn ao nước
lã”. Cách hóa giải mâu thuẫn độc đáo này khiến dòng họ vừa khơi dậy dược tinh
thần đoàn kết nội tộc, duy trì bền vững lối ứng xử tình nghĩa giữa con người
với con người.
Những truyền thống tốt đẹp của gia
đình và dòng họ là sự kết tinh những giá trị đạo đức, trí tuệ, những phẩm chất
tâm hồn, những thành quả làm nên cái thần trí, hồn tính của dòng tộc mà ở đó
bản sắc của nó lúc nào cũng là một bảo vật vô giá, thiêng liêng không thể thay
thế được, hướng tới giá trị nhân văn “ Chân - Thiện - Mỹ” là trụ cột tinh thần
trong đời sống con người và xã hội.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét