Sưu tầm: TS.Nguyễn Văn Kiệm
Trong lịch sử
Việt Nam, đã từng có nhiều trường hợp và sự kiện mang nhiều người đến với họ
Nguyễn.
Năm 1225, nhà
Lý suy vong, Trần Thủ Độ đã bắt con cháu của dòng họ Lý chuyển sang họ Nguyễn.
Khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, ông ta đã giết rất nhiều con cháu của dòng họ
Trần. Vì thế, sau khi nhà Hồ sụp đổ, con cháu của họ Hồ vì sợ trả thù nên tất
cả đã đổi sang họ Nguyễn.
Năm 1592, nhà
Mạc suy tàn, con cháu của dòng họ Mạc cũng lại đổi họ sang Nguyễn. Khi triều
đại nhà Nguyễn nắm quyền năm 1802 (vua Gia Long), một số con cháu của họ Trịnh
cũng vì sợ trả thù nên lần lượt đổi họ sang Nguyễn, số còn lại trốn lên Bắc
sang Trung Quốc. Trong luật của triều đại nhà Nguyễn, những người mang họ
Nguyễn được hưởng nhiều đặc lợi, được triều đình ban thưởng, và vì thế các tội
nhân cũng theo đó đổi họ sang Nguyễn nhằm tránh bị bắt và được hưởng lộc...
Xem trong http://hoanganhvanpvn.vnweblogs.com/print/32787/424463
http://mactoc.com/news/60/chi-phai-ho-mac.aspx
Xem trong http://hoanganhvanpvn.vnweblogs.com/print/32787/424463
http://mactoc.com/news/60/chi-phai-ho-mac.aspx
1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
(Vietsciences. Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ nhà
Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà
Trần (1226-1400).
Nguyên
Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224) nhường ngôi cho người con gái
mới sáu tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm giáp thân (cuối 1224), tức
Lý Chiêu Hoàng (trị vì 124-1225). Lý Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất
gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sư. Trần Thủ Độ sắp
đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng.
Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông.
Để
củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc
đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa
Chân Giáo gặp thiền sư Huệ Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng:
"Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái". Nghe thế thầy Huệ Quang trả lời:
"Lời nhà ngươi nói ta hiểu rồi". Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời
thầy Huệ Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự
vận. (1)
Trần
Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ
tộc ít người ở các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm nhâm thìn
(1232), nhân việc ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông
tên là Trần Lý, nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ
Lý phải đổi thành họ Nguyễn.
Gần
cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn
Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng
tre lá trên một cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra
lệnh chôn sống hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ
lo lắng bấy lâu nay. Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu nhà Lý
không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn
khuất trong dân gian để tránh bị tiêu diệt.
Đặc
biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm
1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biên sang lập nghiệp ở Triều Tiên
hay Cao Ly tức Korea. Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt
Nam thăm lại đất tổ. (3)
Một
câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ
Nguyễn mà không qua họ khác ?. Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ
thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và
ngược lại họ Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. Phải chăng Trần Thủ Độ
muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước. Xem thêm trong
http://newvietart.com/index4.652.html
http://newvietart.com/index4.652.html
2. Họ Mạc đổi thành họ Nguyễn và các họ khác
Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy sứ
năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng
dần lên chức thái phó tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công
triều vua Lê Chiêu Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc
Đăng Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì
1522-1527), tự mình lên làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì 1527-1530) lập ra nhà
Mạc.
Khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc
tẩu tán khắp nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn
trốn, và một số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ
khác nhau. Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển
là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là
Nguyễn Hữu Vinh. Không những chỉ một họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác
nữa. Trước đây, những họ nầy không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân
chủ trả thù, và một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây
những ưu phiền cho con cháu họ nhà nầy.
Qua các cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ các
họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ
nên con cháu bị bắt buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một
dòng họ lớn từ thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày
một phát triển, hưng thịnh. Đó là họ Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà
Trung, tỉnh Thanh Hóa. Xem thêm trong
http://mactoc.com/news/60/chi-phai-ho-mac.aspx
http://mactoc.com/news/60/chi-phai-ho-mac.aspx
3. Họ Hồ sang họ Nguyễn
Nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, dòng
dõi Hồ Quý Ly. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn
vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố (cụ nội)
của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng
Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là
Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn,
cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy
nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ
sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu
và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn
ngay từ khi mới vào Nam.
Nguyễn
Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ
và Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là Quang Bình, Văn Huệ
hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình hoặc
Đức ông Tám.(Nguồn diễn đàn lịch sử Việt Nam 2010)
4. Một họ lớn không thay đổi
Theo Thế phả, "Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn Bặc, thân phụ và thân mẫu
của ngài không được rõ, ngài được xem là thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Phúc.
Nguyễn
Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thuở hàn vi và là cận thần của Đinh Bộ Lĩnh
tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì 968-979). Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn
Bặc được phong Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng
bị ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích khách là Đỗ Thích, và tôn phò con
của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ. Lê Hoàn có ý làm phản nhà Đinh,
Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê Hoàn, nhưng bị Lê Hoàn bắt giết.
Theo
sách Thế phả, tức sách gia phả của dòng họ nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày
nay, thời nào họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người
giữ những địa vị cao trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ
có một thay đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ "Phúc"
vào thế kỷ 16. Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng
thấy thần nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ "Phúc". Có người đề nghị
bà lấy chữ "Phúc" đặt tên cho con, thì bà trả lời rằng: "Nếu đặt
tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ
"Phúc" đặt làm chữ lót thì mọi người đều được hưởng phúc". Bà
liền đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635, cầm quyền 1613-1635). Từ đó,
họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang đổi thành họ Nguyễn Phúc. (14)
Dù
có người nghĩ rằng các tác giả Thế phả đương nhiên tâng bốc tổ tiên mình, nhưng
không ai có thể phủ nhận những khuôn mặt lớn trong quá trình lịch sử dân tộc
như Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn (?-1229), Nguyễn Kim (1468-1545), Nguyễn Hoàng
(1525-1613), Nguyễn Phúc Tần (1620-1687, cầm quyền 1648-1687) ...
Thời
điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc llên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc
Ánh tức vua Gia Long (trị vì 1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất
nước rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Các vua
Nguyễn rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ như các triều đại
trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) còn
làm một bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ làm chữ lót cho con cháu Nguyễn Phúc
để phân định thứ bậc các hệ phái từ con cháu của Gia Long trở xuống.
Năm
1945, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) thoái vị tại Huế, chấm dứt chế độ quân chủ
tại nước ta, nhưng họ Nguyễn Phúc, vốn rất đông người từ thời các vua Nguyễn,
vẫn cứ phát triển vững vàng, và có nhiều nhân vật nổi tiếng trong khắp các lãnh
vực chính trị, quân sự, văn hóa, học thuật, kinh tế, khoa học ... chẳng những ở
trong nước mà cả trên thế giới.(Nguồn
Vietsciences)
Xem thêm dòng họ nguyễn trong http://www.vietnamgiapha.com/XemThuyTo/2067/thuy_to.html
Xem thêm dòng họ nguyễn trong http://www.vietnamgiapha.com/XemThuyTo/2067/thuy_to.html
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét